Bảo tồn các loài hoang dã nguy cấp ở Việt Nam

BVRMT – Thời gian qua, công tác bảo tồn các loài hoang dã ở nước ta đã đạt được một số thành tựu đáng kể như: gia tăng, phục hồi diện tích các hệ sinh thái được bảo vệ; phát hiện mới nhiều loài có ý nghĩa về khoa học và bảo tồn nhằm phục hồi, phát triển các nguồn gien quý.

Nhân viên cứu hộ Vườn quốc gia Bidoup – Núi Bà (Lâm Đồng) thả vượn má vàng về rừng. Ảnh: XUÂN LÂM

Tuy nhiên, do các áp lực từ biến đổi khí hậu (BĐKH), hoạt động của con người như: phá rừng, ô nhiễm môi trường, săn bắt, buôn bán trái phép các loài động vật hoang dã (ĐVHD)…, dẫn đến sự sụt giảm các quần thể loài trong tự nhiên ở Việt Nam hiện nay.

Việt Nam được ghi nhận là quốc gia có tính đa dạng sinh học (ĐDSH) cao với khoảng 7.500 loài chủng vi sinh vật; 20 nghìn loài thực vật bậc cao trên cạn và dưới nước; 10.500 loài động vật trên cạn; 1.000 loài cá nước ngọt; dưới biển có hơn 7.000 loài động vật không xương sống, khoảng 2.500 loài cá và xấp xỉ 50 loài rắn biển, rùa biển và thú biển… Nhận thức được tầm quan trọng của ĐDSH, trong những năm qua công tác bảo tồn các loài hoang dã đã đạt được một số thành tựu đáng kể như gia tăng, phục hồi diện tích các hệ sinh thái được bảo vệ; phát hiện mới nhiều loài có ý nghĩa về khoa học và bảo tồn nhằm phục hồi, phát triển các nguồn gien quý. Tính đến nay, Việt Nam đã có 164 khu bảo tồn rừng đặc dụng, khu bảo tồn biển và khu bảo tồn vùng nước nội địa với tổng diện tích 2,2 triệu ha là sinh cảnh quan trọng của các loài hoang dã nguy cấp, quý, hiếm. Gần đây, Việt Nam cũng đã phát hiện hơn 500 cá thể voọc chà vá chân xám tại Kon Tum và hơn 200 cá thể voọc xám Đông Dương tại Thanh Hóa…

Tuy nhiên, những năm gần đây, tài nguyên ĐDSH của Việt Nam đang trên đà suy giảm, nhất là nhiều loài nguy cấp, quý hiếm, có nguy cơ tuyệt chủng cao. Theo sách đỏ của Liên minh Bảo tồn thiên nhiên quốc tế (IUCN) cho thấy: nếu như năm 1996 chỉ có 25 loài động vật của Việt Nam ở mức nguy cấp (EN), thì tính đến tháng 9-2016, con số này đã lên tới 110 loài. Tổng số các loài động vật quý, hiếm tăng từ 365 loài (năm 1992) lên 418 loài (năm 2007); thực vật quý, hiếm tăng từ 356 loài (năm 1996) lên 464 loài (năm 2007), trong đó có 116 loài đang ở mức nguy cấp rất cao; chín loài chuyển từ các mức nguy cấp (năm 2004) lên mức coi như đã tuyệt chủng, như: tê giác hai sừng, bò xám, heo vòi, cầy rái cá, cá sấu hoa cà, hươu sao. Số lượng cá thể của các loài quan trọng đã giảm đến mức báo động, nhất là các loài thú lớn và một số loài linh trưởng như: hổ, voi, vượn, voọc, sao la…

Các chuyên gia trong lĩnh vực này cho rằng, bên cạnh áp lực từ BĐKH, một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng suy giảm số loài và số lượng cá thể loài hoang dã ở Việt Nam thời gian qua là do hệ thống các chính sách, quy định pháp luật về bảo tồn ĐDSH nói chung và bảo tồn loài nói riêng chưa đồng bộ. Điển hình như trong công tác bảo vệ các loài hoang dã, nhất là các loài nguy cấp, quý, hiếm còn có sự chồng chéo về phân quyền, trách nhiệm quản lý giữa Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn với Bộ Tài nguyên và Môi trường. Do vậy, trong quá trình xây dựng văn bản triển khai Luật ĐDSH chưa đạt được sự thống nhất, dẫn đến chậm ban hành các văn bản hướng dẫn, quản lý, bảo tồn các loài. Nguồn lực đầu tư cho công tác bảo tồn loài hạn chế, các chương trình bảo tồn loài chưa được quan tâm đúng mức. Tình trạng chặt phá rừng, chuyển đổi mục đích sử dụng rừng sang canh tác, khai thác khoáng sản, phát triển hạ tầng, thủy điện… làm mất sinh cảnh sống của các loài dẫn đến xung đột ngày càng gia tăng giữa con người và các loài sinh sống trong tự nhiên. Nhận thức của toàn xã hội đối với công tác bảo tồn loài, bảo tồn ĐDSH còn nhiều hạn chế, một bộ phận người dân vẫn có thói quen sử dụng các loài ĐVHD nguy cấp dẫn đến nạn săn bắt, buôn bán, tiêu thụ gia tăng và trở thành vấn đề nóng, bức xúc trong xã hội thời gian qua… Đáng chú ý, theo số liệu thống kê của Cục Kiểm lâm (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) cho thấy: từ năm 2010 đến hết tháng 8-2016, lực lượng kiểm lâm cả nước đã phát hiện và xử lý hơn 174 nghìn vụ vi phạm pháp luật về quản lý, phát triển, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản. Trong đó, số vụ vi phạm các quy định về quản lý ĐVHD là 4.305 vụ, tịch thu hàng nghìn kg sản phẩm ĐVHD và hơn 60 nghìn cá thể ĐVHD các loại, trong đó 3.418 cá thể thuộc loài nguy cấp, quý, hiếm.

Để bảo tồn các loài động vật nguy cấp, ứng phó với nạn săn bắt, buôn bán, tiêu thụ ĐVHD trái phép ở Việt Nam, bên cạnh những công cụ mang tính chất ràng buộc và pháp lý quốc tế mà Việt Nam là thành viên như: Công ước ĐDSH (CBD), Công ước về các vùng đất ngập nước có tầm quan trọng quốc tế (RAMSAR), Công ước về buôn bán quốc tế các loài động vật, thực vật hoang dã nguy cấp (CITIES)… Thời gian tới, Việt Nam cần tiếp tục hoàn thiện các chính sách, quy định pháp luật và quản lý dữ liệu để bảo vệ các loài nguy cấp. Tiến hành rà soát, sửa đổi, bổ sung khung pháp lý, chính sách về bảo vệ động vật, thực vật hoang dã, tiến tới loại bỏ những bất cập và sự thiếu nhất quán giữa các văn bản pháp luật. Tạo việc làm bền vững và hướng dẫn, khuyến khích cộng đồng sống ở các vùng đệm tham gia bảo vệ và bảo tồn các loài nguy cấp, quý, hiếm…

Tăng cường nguồn lực, năng lực cho công tác quản lý và thực thi pháp luật để bảo tồn hiệu quả tại chỗ và chuyển chỗ các loài nguy cấp; xây dựng cơ chế hợp tác liên ngành, trao đổi thông tin và vai trò tham gia, phối hợp triển khai các hoạt động bảo tồn và thực thi pháp luật. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về bảo vệ ĐVHD tới cộng đồng, nhất là cần công khai thông tin về các vụ vi phạm về bảo vệ loài nguy cấp trên các phương tiện thông tin đại chúng để tăng tính răn đe, phòng ngừa tội phạm trong khai thác, vận chuyển, buôn bán ĐVHD. Nghiên cứu, chuyển giao công nghệ về cứu hộ, tái thả các loài về tự nhiên, giám định, nhận dạng loài. Huy động các nguồn lực (tài chính, kỹ thuật và thể chế) nhằm thực thi các hiệp ước, cam kết quốc tế và pháp luật quốc gia về bảo tồn các loài hoang dã thông qua các cơ chế hợp tác khu vực và toàn cầu…